0

Tầm quan trọng của các thụ thể Vitamin D hay bị bỏ qua

Một vài năm trước đây, vitamin D đơn giản được gọi là “Vitamin của xương”. Nhờ nỗ lực của nhiều nhà khoa học, đặc biệt là Tiến sĩ Michael Holick, người tiên phong trong nghiên cứu vitamin D, cho thấy gần như tất cả các mô và tế bào trong cơ thể đều có thụ thể vitamin D. 

>>> Thiếu Vitamin D gây hại cho sức khỏe

>>> Nguồn thực phẩm bổ sung vitamin D tự nhiên

>>> Vitamin D cần thiết cho sự phát triển não bộ của thai nhi

 

Theo kết quả của nghiên cứu này, để các chức năng của các cơ quan hoạt động tốt hơn, cần thiết phải tăng liều bổ sung Vitamin D. Phát hiện này đã thay đổi hoàn toàn cách hiểu của chúng ta về vai trò của vitamin D trong cơ thể. Trừ khi cơ thể của bạn đang ở trạng thái tốt nhất, bạn luôn có nguy cơ bị các rối loạn khác nhau, từ bệnh tim và Alzheimer đến các vấn đề về xương và Tiểu đường.

 

Trong thực tế, ngay cả khi hôm nay bạn có đường huyết ở mức bình thường, sự thiếu hụt vitamin D có thể khiến bạn tăng 91 % khả năng phát triển kháng Insulin, hoặc “tiền Tiểu đường” và nó tăng nguy cơ tiến triển bệnh tiểu đường tuýt 2 lên gấp đôi. Thật không may, sự thiếu hụt vitamin D là mối lo ngại chung trên toàn cầu.

 

Tầm quan trọng của các thụ thể Vitamin D hay bị bỏ qua

 

Ước tính có khoảng 1 tỷ người không đạt đủ mức vitamin D. Và 64% người Mỹ không đủ vitamin D để đảm bảo tất cả các mô của chúng ta hoạt động ở hiệu suất cao nhất. Kết quả của sự thiếu hụt này thực sự là một thảm họa. Nghiên cứu hiện nay cho thấy rằng thiếu hụt vitamin D có liên quan tới việc tăng nguy cơ một loạt các bệnh trong cơ thể. Trong thực tế, nếu vitamin D chỉ ở mức thấp, rất dễ làm tăng nguy cơ mất trí nhớ không phải Alzheimer lên 20 lần.

 

Hiện tại kiểm tra nồng độ vitamin D không phải là tiêu chuẩn được nhiều bác sĩ quan tâm, nhưng bạn sẽ nhận thấy việc đánh giá nồng độ Vitamin D trong cơ thể là một trong những yếu tố quan trọng nhất giúp bạn có thể bảo vệ được sức khỏe khi đọc bài viết này. May mắn thay, để đạt được mức tối ưu của vitamin D rất dễ dàng, không hề tốn kém và có thể bảo vệ chống lại một số bệnh nguy hiểm tính mạng.

 

Tại sao vitamin D là rất quan trọng

 

Cơ thể con người có thể tự tổng hợp một số vitamin D từ chế độ ăn uống hoặc từ ánh sáng mặt trời, hoặc tự bổ sung để duy trì mức độ thích hợp . Khi bổ sung vitamin D trong chế độ ăn uống hoặc tự sản xuất qua da, gan và thận sẽ chuyển nó sang dạng hoạt động được, gọi là 1,25 - Dihydroxyvitamin D, hoặc vitamin D3.

 

Hầu như tất cả các loại mô trong cơ thể đều có các thụ thể vitamin D, có nghĩa là tất cả chúng đều cần vitamin D dành cho tất cả các chức năng trong cơ thể. Sự hiện diện của các thụ thể rất cụ thể xác định vitamin D như một hormone, chứ không phải là một vitamin. Nó tương tác với các thụ thể khắp cơ thể và tạo ra một số hiệu ứng khác nhau.

 

Có điều hiển nhiên rằng Vitamin D liều cao rất cần thiết để hỗ trợ các hoạt động khác trong các mô như cơ tim, tế bào não, các mô mỡ và rất nhiều mô khác. Ngoài ra, vitamin D giúp điều hòa gen, kiểm soát sự tăng trưởng và phát triển tế bào, chức năng miễn dịch, và kiểm soát trao đổi chất.

 

Nghiên cứu cho thấy rằng thiếu hụt vitamin D có liên quan tới tăng nguy cơ nhiều rối loạn mãn tính, bao gồm cả bệnh tiểu đường tuýp 2, ung thư, nhiễm trùng và các bệnh tim mạch, tự miễn và thần kinh.

 

Sự suy giảm vitamin D trên toàn cầu

 

Hầu hết chúng ta đơn giản là không bổ sung đủ vitamin D cho phép cơ thể hoạt động tối ưu tất cả các chức năng mà vitamin D hỗ trợ. Theo ước tính, chỉ có khoảng 1 tỷ người (1/7 dân số thế giới) cung cấp đầy đủ vitamin D trong cơ thể. Theo tiêu chuẩn y tế, tình trạng vitamin D trong cơ thể có ba cấp độ: đầy đủ, không đủ và thiếu.

 

- Những người được coi là “đủ” vitamin D có ít nhất 30ng/ml máu. Tuy nhiên, tình trạng vitamin D tối ưu được thực hiện tối thiểu là 50 ng/ml.

 

- Những người được coi là “không đủ” (có nghĩa là cơ thể của họ tiếp nhận vitamin D tối ưu) có nồng độ: 21 - 29 ng /ml.

 

- Và những người “thiếu” vitamin D có mức bằng hoặc thấp hơn 20 ng/ml.

 

Tầm quan trọng của các thụ thể Vitamin D hay bị bỏ qua

 

Theo những tiêu chí trên, có tới 25% người Mỹ ở mức không đủ, và 39% là hoàn toàn thiếu. Tức là, có tới 64 % người Mỹ không có đủ vitamin D để giữ tất cả các mô trong cơ thể hoạt động ở với hiệu quả tốt nhất. Đó là lí do chúng ta đang gặp khó khăn với rất nhiều bệnh mãn tính.

 

Vitamin D hỗ trợ sức khỏe tim mạch

 

Tình trạng thiếu vitamin D rất phổ biến ở những người bị bệnh tim mạch. Nó được công nhận là một yếu tố độc lập dự báo các bệnh về tim và mạch máu, bao gồm cả nhồi máu cơ tim và đột quỵ Một nghiên cứu được công bố trong năm nay cho thấy 1/3 những phụ nữ có nồng độ vitamin D cao nhất thấp hơn 68% nguy cơ đau tim so với 1/3 những người có nồng độ thấp nhất, còn ở đàn ông thì tỉ lệ đó là 44%.

 

Ngược lại, nếu mức độ vitamin D của bạn là thấp hơn trung bình, bạn có 42% gia tăng nguy cơ chết vì bệnh tim mạch và 49-64 % nguy cơ gia tăng đột quỵ. Nguy cơ tắc động mạch vành (tiền thân một cơn đau tim) cũng tăng thêm gấp đôi đối với những người bị thiếu hụt vitamin D (ít hơn 20ng /ml).

 

Tại sao thiếu vitamin D dẫn đến nguy cơ gia tăng đáng kể những căn bệnh nguy hiểm tính mạng của dân Mỹ?

 

Đó là bởi vì cơ tim, mạch máu, và các hệ thống tuần hoàn khác rất giàu thụ thể vitamin D, chức năng hoạt động tối ưu của chúng phụ thuộc nhiều vào vitamin D. Động vật nuôi không được bổ sung vitamin D rất dễ mắc bệnh tim mạch và dần dần khi bệnh nặng thêm sẽ dẫn đến rối loạn chức năng tim. Các hệ quả này có thể do vai trò của vitamin D trong việc tăng cường đường dẫn tín hiệu bảo vệ trong các mô để ngăn chặn tác hại đó.

 

Ngoài ra, vitamin D là cần thiết để ngăn chặn sự tích tụ quá mức Collagen và những Protein ở cơ tim và thành mạch máu, làm giảm lưu lượng máu và tăng huyết áp.

 

Lợi ích đối với tim của vitamin D

 

Có không ít các nghiên cứu hấp dẫn về vitamin D và nguy cơ tim mạch của con người. Một nghiên cứu cho thấy khi bổ sung hàng ngày 3.320 IU vitamin D sẽ làm giảm chỉ số Triglyceride đến 13,5% (so với mức tăng 3 % của một chương trình giảm cân tiêu chuẩn) và cũng làm giảm yếu tố hoại tử khối u - Alpha, một dấu hiệu chính gây viêm, góp phần tạo nên xơ vữa động mạch.

 

Bổ sung Vitamin D cũng giúp thư giãn mạch máu, giúp làm giảm huyết áp và cải thiện lưu lượng máu. Trong một nghiên cứu đối với những thanh thiếu niên người Mỹ gốc Phi (một nhóm có nguy cơ rất cao về cao huyết áp và bệnh tim mạch), bổ sung lượng vitamin D 2.000IU /ngày thúc đẩy huyết áp về mức độ bình thường. Nhóm bổ sung cũng cho thấy vai trò quan trọng và mang lại lợi ích trong giảm xơ cứng động mạch chủ, một tiêu chuẩn rủi ro mang đến bệnh tim mạch.

 

Trong một nghiên cứu khác đối với người lớn Mỹ gốc Phi (cũng có nguy cơ cao mắc bệnh tim mạch), bổ sung lượng vitamin D 60.000 IU/ tháng trong liên tiếp 4 tháng (khoảng 2.000 IU/ ngày) giúp cải thiện chức năng nội mô, một đặc tính cần thiết của các mạch máu cho phép cung cấp lưu lượng máu đầy đủ ở mức độ an toàn.

 

Hiệu quả an toàn tương tự đã được chứng minh trong những người sống sót sau đột quỵ, người thực sự cần tối ưu hóa chức năng nội mô. Trong một nghiên cứu của việc bổ sung vitamin D ở phụ nữ béo phì và thừa cân (độ tuổi trung bình là 38 tuổi), bổ sung lượng vitamin D 1.000 IU/ ngày mức giúp tăng cường bảo vệ HDL( mức Cholesterol và lượng mỡ trong cơ thể giảm đáng kể sau 12 tuần).

 

Thiếu vitamin D cũng liên quan đến bệnh động mạch ngoại biên, khi đó triệu chứng xơ cứng và hẹp động mạch sẽ khiến không cung cấp đủ máu đến các chi, đặc biệt là chân. Những người có nồng độ vitamin D thấp có nhiều khả năng phát triển bệnh động mạch ngoại vi, mức độ phát bệnh tỷ lệ thuận mức Vitamin D thấp trong cơ thể. Trong thực tế, hậu quả tồi tệ nhất của tình trạng này là phải cắt cụt chi, và rất dễ xảy đến với những người có mức Vitamin D thấp.

 

Chính vì thế, duy trì vitamin D rất cần thiết cho sức khỏe tim mạch, nhưng cũng phải đảm bảo dùng với liều lượng thích hợp. Nghiên cứu các bệnh nhân tim mạch chỉ sử dụng lượng vitamin D 400-600 IU/ngày cho thấy dường như chưa đem lại lợi ích. Một nghiên cứu đã chứng minh rằng bổ sung 2.000 IU mỗi ngày là mức tối thiểu cần thiết để đảm bảo có thể đạt được mức tối thiểu là 30 ng/ml của vitamin D trong máu.

 

Vitamin D giảm nguy cơ tiểu đường

 

Vitamin D cũng có thể đóng một vai trò quan trọng đối với bệnh tiểu đường. Những người mắc bệnh tiểu đường (cả hai loại I và II) có mức vitamin D thấp hơn so với người thường. Sự thiếu hụt vitamin D làm gia tăng 91 % khả năng phát triển đề kháng Insulin, hoặc “tiền tiểu đường” (ngay cả đối với những người có lượng đường trong máu bình thường ).

 

Ngoài ra, sự thiếu hụt vitamin D sẽ làm tăng gấp đôi nguy cơ tiến triển tiểu đường tuýt 2. Sự kết nối chặt chẽ giữa vitamin D và bệnh tiểu đường là do thụ thể vitamin D được tìm thấy trong các tế bào sản xuất Insulin của tuyến tụy và gan, chất béo và các mô cơ, tất cả đều ảnh hưởng đến sự tồn tại của Glucose trong máu.

 

Ví dụ, các tế bào bạch cầu gọi là đại thực bào có các thụ thể vitamin D. Khi các đại thực bào được lấy từ bệnh nhân tiểu đường, chúng có hàm lượng chất béo cao, góp phần tăng nguy cơ tim mạch bệnh nhân tiểu đường. Tuy nhiên, khi các tế bào được điều trị trong phòng thí nghiệm với vitamin D, chúng đã dừng hấp thu chất béo và cuối cùng giúp giảm nguy cơ bệnh tim mạch.

 

Tương tự như vậy, động vật trong phòng thí nghiệm bị bệnh tiểu đường đã giảm số lượng Insulin và các thụ thể vitamin D trong bộ não của chúng, chúng bị dư mỡ của cơ thể và tình trạng viêm và tổn thương DNA ở mức độ cao, kết quả bài kiểm tra về trí nhớ và nhận thức ở bệnh Alzheimer đã được gọi là “bệnh tiểu đường của não bộ” rất kém. Nhưng khi bổ sung vitamin D đã giúp khôi phục tất cả những chức năng gần như bình thường, bao gồm cả khả năng nhận thức.

 

Đây là một phát hiện đặc biệt quan trọng, vì nó thể hiện tiềm năng của vitamin D để giúp đảo ngược quá trình của bệnh tiểu đường. Những thay đổi viêm ở động vật mắc bệnh tiểu đường, cũng giống như đối với con người, dẫn đến tăng mỡ trong gan, một tình trạng gọi bệnh gan nhiễm mỡ không cồn (NAFLD).

 

Tình trạng này tiếp tục suy đồi do thiếu hụt vitamin D. Nhưng khi bệnh nhân tiểu đường có dấu hiệu viêm cao được bổ sung lượng vitamin D 1.000 IU/ngày sẽ giảm đáng kể tình trạng viêm. Có lẽ đây là tin tức đáng chú ý nhất về vitamin D hiện nay là nó làm chậm sự tiến triển từ tiền tiểu đường đến bệnh tiểu đường. Khi bị béo phì, người lớn không tiểu đường được bổ sung lượng vitamin D 2.000 IU/ngày hoặc giả dược trong 16 tuần, nhóm dùng vitamin D đã cải thiện được đáng kể lượng đường trong máu, cải thiện sự tiết Insulin từ tuyến tụy, và xu hướng giảm mức độ Hemoglobin A1c.

 

Nghiên cứu cho thấy rằng bổ sung vitamin D3 có thể làm giảm huyết áp, mức cholesterol, LDL-cholesterol và tất cả các yếu tố tạo nên nguy cơ bệnh tim và thận cho những bệnh nhân tiểu đường. Điều trị dùng vitamin D3 tích cực cũng làm giảm đáng kể nồng độ Protein trong nước tiểu, một dấu hiệu của bệnh thận. Một vài ngoại lệ, liều vitamin D ít hơn 1.200 IU/ngày đã không được chứng minh là có hiệu quả như liều 2.000 IU / ngày trong việc làm giảm lượng đường trong máu, Hemoglobin A1c, mức Lipid và những dấu hiệu bệnh khác ở những bệnh nhân tiểu đường.

 

 

 

Hoài Thanh

 

Theo Medical News Today

 

 

Tin mới nhất
Bài viết cùng chuyên mục

Detocap

 

Zulap

 Lưu huyết minh 

x

 

"Mời để lại số điện thoại, chúng tôi sẽ gọi lại ngay. Mọi thông tin hoàn toàn bảo mật."