0

Tự sát dưới góc độ y xã hội học

Tự sát thường có liên hệ với trạng thái tuyệt vọng hoặc do một số rối loạn tâm thần cơ bản bao gồm trầm cảm, rối loạn lưỡng cực, tâm thần phân liệt, nghiện rượu, ma túy... có thể đóng một vai trò quan trọng dẫn đến quyết định tự sát.

 

Ở nước ta trong những năm gần đây, tỷ lệ tự sát trong cộng đồng đang có xu hướng tăng.


Tự tử, tự sát, tự vẫn hay tự kết liễu... đều là những từ ngữ chỉ chung một hiện tượng khi con người thực hiện hành vi tự gây ra cái chết đối với bản thân mình. Đó là một sự lựa chọn có chủ tâm suy nghĩ, cố ý tự làm hại bản thân mình với mong muốn được chết.


Một hiện tượng khác là tự gây hại, tự gây thương tích có khi trở thành hành vi tự sát, đang có xu hướng tăng trong giới trẻ cũng cần được quan tâm

 

Tự sát dưới góc độ y xã hội học
 
Người bệnh không chỉ dùng thuốc mà còn cần được chăm sóc về nhiều mặt.

 

Một số yếu tố tác động

 

Rối loạn tâm thần: Thường xuyên xuất hiện tại thời điểm tự sát với các ước tính từ 87% - 98%. Khi phân loại các rối loạn tâm thần trong các vụ tự sát có 30% trường hợp bị rối loạn cảm xúc (rối loạn lưỡng cực, rối loạn trầm cảm), 18% lạm dụng chất gây nghiện, 14% bị tâm thần phân liệt (dân gian thường gọi là điên) và 13% rối loạn nhân cách. Khoảng 10% người tử vong ở bệnh nhân tâm thần phân liệt do tự sát.

 

Trầm cảm là một trong những rối loạn tâm thần phổ biến nhất với số lượng được chẩn đoán ngày càng tăng trên toàn thế giới và thường là yếu tố thúc đẩy tự sát.

 

Nghiện chất: Ma túy (tự nhiên, bán tổng hợp, tổng hợp), rượu.
 

Yếu tố sinh học:

 

- Yếu tố di truyền: Sự ảnh hưởng di truyền có liên quan đến một số bệnh lý như bệnh tâm thần (trầm cảm, tâm thần phân liệt...)

 

- Yếu tố sinh hóa: Các bất thường ở não, đặc biệt là hệ Serotonin đã được chứng minh có liên quan. Những người tự tử bằng các biện pháp bạo lực, bốc đồng như treo cổ, bắn vào mình, nhảy từ trên cao xuống... thường có sự giảm axít 5 - hydroxy - indol - acetic - acid (5HIAA), một chất chuyển hóa của serotonin trong dịch não tủy.

 

- Bệnh cơ thể: Là yếu tố đi kèm thường gặp của tự sát. Những người có nguy cơ cao là người nhiễm HIV/AIDS, bệnh ác tính, chấn thương cột sống...

 

Yếu tố xã hội: Tự sát như một hình thức thách thức và kháng nghị, tự sát để thoát khỏi sự trừng phạt của pháp luật, tự sát để phục vụ mục đích quân sự, tự sát như là một cách để giải thoát…

 

Tín ngưỡng tôn giáo, sự ngược đãi, yếu tố gia đình; Yếu tố học tập và nghề nghiệp: Trong học tập, áp lực trong học tập, bị điểm kém, bị thầy cô giáo phạt, bị bạn bè trêu chọc... Trong nghề nghiệp, thất bại trong nghề nghiệp, bị mất việc, bị sạt nghiệp, bị vỡ nợ... Quan hệ yêu đương: chia tay, có thai, phá thai.

 

Yếu tố tâm lý: Hành vi tự sát dù chịu ảnh hưởng ít nhiều từ các yếu tố xã hội nhưng xét cho cùng hành vi ấy chỉ mang tính chất cá nhân. Những người có hành vi tự tử luôn có những lý do riêng xuất phát từ chính bản thân của nạn nhân và các mối quan hệ xã hội khác, hành vi tự tử được thực hiện bằng cách nào thì cũng mang những ý nghĩa riêng mà đôi khi chỉ có bản thân nạn nhân mới thấu hiểu.

 

Tự sát liên quan đến bệnh lý tâm thần

 

Ý định tự sát thường đến trong đầu bệnh nhân chỉ vài phút trước khi hành động, vì vậy họ chỉ hành động một cách bộc phát không có sự chuẩn bị gì.

 

Các yếu tố nguy cơ cao cho tự sát là nam giới, sống cô lập, thất nghiệp, trầm cảm, mất hy vọng và có tiền sử tự sát. Tự sát có thể diễn ra bất kỳ giai đoạn nào nhưng thường xảy ra trong giai đoạn cấp và các lần tái phát của bệnh tâm thần phân liệt.

 

Tự sát cũng hay xảy ra trong vòng 6 tháng sau khi bệnh nhân ra viện, đặc biệt 3 tháng đầu. Nhiều tác giả cho rằng, sau khi ra viện, bệnh nhân không kiếm được việc làm hoặc mất việc làm hoặc không thể tiếp tục học tập; mâu thuẫn với những thành viên khác trong gia đình, uống thuốc củng cố không đều làm nguy cơ tự sát tăng lên.

 

 
 Não người bị tâm thần phân liệt (trái) và não người khỏe mạnh.

 

Trầm cảm có tỷ lệ 3 - 4% dân số, tự sát có thể gặp ở 50 - 70% số trường hợp trầm cảm. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, không thể dự đoán một cách chính xác bệnh nhân trầm cảm nào có ý định tự sát hay không và khi nào tự sát.

 

Động cơ tự sát của bệnh nhân là mong muốn cao độ chấm dứt một trạng thái cảm xúc đau khổ, sự tra tấn đang hành hạ cơ thể bệnh nhân. Đôi khi tự sát có thể do hoang tưởng ảo giác chi phối.

 

Ý tưởng và hành vi tự sát là một trong các nhóm triệu chứng phổ biến của trầm cảm. Khoảng 40 - 80% số trường hợp tự sát ở lứa  tuổi 14 - 19  có đủ tiêu chuẩn chẩn đoán cho một giai đoạn trầm cảm.

 

Người nghiện ma túy, rượu thường tự sát trong hội chứng cai, sảng rượu, xung đột gia đình, bế tắc trong cuộc sống… nghiện game online, nghiện cờ bạc cũng có thể có vấn đề như rượu và ma túy.

 

Rối loạn nhân cách là nhóm nguy cơ tự sát đặc biệt cao bởi xu hướng rối loạn trong các mối quan hệ cá nhân - xã hội - gia đình, dễ bị những rối loạn khí sắc cấp tính và có những hành vi xung đột bất thường.

 

Các yếu tố tâm lý ở những người có ý tưởng và hành vi tự sát: Xung đột tình cảm là yếu tố quan trọng và gặp ở hầu hết các trường hợp. Ở thanh thiếu niên, người ta nhận thấy phần lớn có các stress tâm lý thúc đẩy trực tiếp hoặc gián tiếp gây ra hành vi tự sát. Tuổi có tỉ lệ tự sát cao nhất là 20 - 29. Tự sát của thanh thiếu niên ở độ tuổi 14 - 19 đang ngày càng tăng.

 

Những biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn hành vi tự sát

 

Kịp thời phát hiện những trường hợp có vấn đề về bệnh lý hoặc tiền sử bệnh tật của bản thân, gia đình. Những người có tiền sử bệnh tâm thần hoặc đã từng xảy ra hành vi tự sát, lối sống, quan hệ xã hội bất thường, người có nói đến từ tự sát, đe dọa tự sát, thất vọng, buồn chán… Gia đình đã có người mắc bệnh tâm thần hoặc đã có người tự sát, ly hôn, ly thân, thất bại trong công việc…

 

Đối với bệnh nhân tâm thần cần phải được thầy thuốc chuyên khoa tâm thần thăm khám và hướng dẫn điều trị. Việc điều trị cần tích cực, kịp thời, đầy đủ thuốc và thời gian. Tuyên truyền vận động cai nghiện ma túy và cai nghiện rượu cũng góp phần làm giảm tỷ lệ tự sát trong nhân dân.

 

Cần đề nghị sự giúp đỡ của người có chuyên môn ngay cả khi người bệnh từ chối. Không để người đó ở một mình, không được thề giữ bí mật, không có các hành động tỏ ra bị sốc hoặc phán xét. Việc chữa trị không chỉ bằng thuốc mà phải kết hợp với liệu pháp nhận thức và hành vi. Cần chỉ ra cho họ cách giải quyết các vấn đề mà họ gặp phải, cách nhìn nhận mới về bản thân và thế giới của họ.

 

Cần giúp mọi người  hiểu biết về những tác nhân có nguy cơ, những dấu hiệu cảnh báo về tự sát và khả năng sẵn sàng hỗ trợ, có thể trực tiếp hoặc thông qua phương tiện truyền thông. 

 

Tỷ lệ tự sát trong nhân dân đang gia tăng, đặc biệt ở những người mắc bệnh tâm thần, để giảm tỷ lệ tự sát cần phát hiện sớm người có nguy cơ để có biện pháp giúp đỡ họ thoát ra khỏi trạng thái bi quan tiêu cực và điều trị bệnh có hiệu quả cho họ.   

 

 

PGS.TS Cao Đức Tiến ( Viện 103 )

 

thuocthang.vn  (theo skds)    


 

Tin mới nhất
Bài viết cùng chuyên mục

Detocap

 

Zulap

 Lưu huyết minh 

x

 

"Mời để lại số điện thoại, chúng tôi sẽ gọi lại ngay. Mọi thông tin hoàn toàn bảo mật."