0

Béo phì khỏe mạnh, sự thèm muốn của bệnh nhân béo phì

Cái gọi là "béo phì khỏe mạnh" là một cơ thể béo phì với chỉ số khối (BMI) cao, nhưng không có các vấn đề về rối loạn chuyển hóa như bị rối loạn chất béo, glucose trong máu cao hoặc tăng huyết áp. Nó không phải là người béo phì nhưng có cơ thể “khỏe mạnh” như một số người nghĩ.

>>> Nguy hiểm do tiêm thuốc giảm cân

>>> Phát hiện mới: Thiếu ngủ dẫn đến béo phì

>>> Thừa cân, béo phì ở trẻ tăng nhanh. Tiếng chuông cảnh tỉnh

 

Đây là khái niệm được đưa ra sau kết quả nghiên cứu và phân tích được công bố trên tạp chí Annals of Internal Medicine.

 

Các nhà nghiên cứu từ Bệnh viện Sinai Mount và Đại học Toronto chọn 12 nghiên cứu quan sát trong đó có tổng cộng 67.127 đối tượng để xem xét. Nghiên cứu bao gồm tất cả các đánh giá về nguyên nhân tử vong và /hoặc các vấn đề về tim mạch, BMI và trạng thái trao đổi chất được định nghĩa bởi sự hiện diện của các thành phần hội chứng chuyển hóa.

 

Béo phì khỏe mạnh, sự thèm muốn của bệnh nhân béo phì

 

Xem xét các đối tượng có trọng lượng bình thường, thừa cân và béo phì có sự trao đổi chất không lành mạnh có nguy cơ bị tử vong và/hoặc bị các vấn đề về tim mạch so với các đối tượng trao đổi chất lành mạnh trong quá trình nghiên cứu, những người béo phì có sự trao đổi chất lành mạnh vẫn có nguy cơ tử vong do mọi nguyên nhân hơn 24% trong vòng 10 năm trở lên khi được theo dõi.

 

Lưu ý: Các bác sĩ nên tập trung vào điều trị béo phì như bất kỳ bệnh mãn tính nào khác và đòi hỏi phải điều trị lâu dài . D. Dye

 

Mức vitamin C cao có thể giảm nguy cơ đột quỵ

 

Các kết quả của một phân tích mô tả trên Tạp chí của Hiệp hội Tim mạch Mỹ cho thấy hàm lượng vitamin C cao và lượng vitamin lớn có thể giúp chống lại nguy cơ đột quỵ. Các nhà nghiên cứu đã chọn lựa nghiên cứu gồm 12 nghiên cứu tiềm năng có liên quan đến mức độ dung lượng vitamin C và sáu thử nghiệm về mức độ vitamin C trong huyết thanh hoặc huyết tương.

 

Các nghiên cứu về chế độ ăn uống vitamin C bao gồm 217.454 người tham gia là nam giới và phụ nữ. Trong đó đã có 29.648 người tham gia trong các nghiên cứu liên quan đến luân chuyển vitamin C. Trong nghiên cứu theo dõi lượng vitamin C được tiêu thụ, các đối tượng dùng liều lượng cao có nguy cơ đột quỵ thấp hơn 19 % so với những người dùng liều lượng thấp.

 

Phân tích gộp lượng vitamin C trong huyết tương hoặc huyết thanh của những người tham gia nghiên cứu cho thấy ở những người có lượng vitamin C cao có nguy cơ đột quỵ thấp hơn 38% so với mức thấp.

 

Lưu ý: Nguy cơ đột quỵ cao thường thấy ở những người tiêu thụ lượng vitamin C thấp, vì thế nồng độ vitamin C được coi như một yếu tố dự báo về nguy cơ dẫn tới các yếu tố gây ra nguy cơ đột quỵ. D. Dye

 

Uống trà có thể giảm nguy cơ đột quỵ

 

Trong Hội thảo quốc tế lần thứ 5 về Trà và sức khỏe con người tại Mỹ, các nhà nghiên cứu từ Đại học California, Los Angeles thông báo kết luận của họ về tác dụng chống lại đột quỵ khi uống trà. Lenore Arab và các đồng nghiệp đã xem xét năm phân tích nghiên cứu về những người uống trà hoặc dùng flavonoid với bệnh tim mạch hoặc đột quỵ, xuất bản trong năm 2001 và năm 2011.

 

Những người uống nhiều trà hơn có nguy cơ đột quỵ và tử vong do đột quỵ thấp hơn 21% so với những người uống trà ít hơn. Đối với những người có lượng chất flavonoid cao thì nguy cơ này thấp hơn 20%. Mức giảm này tương ứng khi uống 3 tách trà mỗi ngày.

 

Lưu ý: Các tính chất phòng ngừa bệnh của trà được cho là do chất flavonoid của có trong trà. D. Dye

 

Thuốc chống ợ nóng có thể gây nên sự thiếu hụt vitamin B12 trong cơ thể

 

Tạp chí của Hiệp hội Y khoa Mỹ đưa ra một mối liên hệ giữa việc sử dụng các thuốc ức chế axít dạ dày và sự thiếu hụt vitamin B12. Nghiên cứu hiện tại so sánh 25.956 người cả đàn ông và phụ nữ được chẩn đoán thiếu vitamin B12 với 184.199 người không bị thiếu, trong giai đoạn một phần tư và nửa năm.

 

Thông tin trong các hồ sơ được cung cấp liên quan đến bệnh nhân dùng các chất ức chế bơm proton (PPI) hoặc thuốc chẹn thụ thể histamin 2 từ 2 năm trở lên. Các đối tượng nhận được PPI được chẩn đoán có nguy cơ thiếu hụt vitamin B12 lớn hơn 65% và những người nhận được thuốc chẹn thụ thể histamine 2 có nguy cơ cao hơn 25% so với những người không dùng thuốc.

 

Đối với những người sử dụng liều cao nhất của thuốc ức chế bơm proton, nguy cơ thiếu hụt là gần gấp đôi so với những người không sử dụng thuốc. Sự thiếu hụt này sẽ được cải thiện dần khi người bệnh ngừng dùng các loại thuốc đó.

 

Lưu ý: Các loại thuốc có khả năng giảm sản xuất axit của dạ dày, bao gồm thuốc ức chế bơm proton (PPI) và chẹn thụ thể histamine 2 có thể sử dụng cho bệnh nhân trào ngược dạ dày (GERD), làm giảm lượng vitamin được hấp thu. Những người cần phải có PPI như Nexium ®, Prolisec ® hoặc Prevacid ® nên xem xét việc dùng vitamin B12 tại một thời điểm riêng biệt hoặc ngậm dưới lưỡi nếu xét nghiệm máu cho thấy thiếu hụt B12. D. Dye

 

Béo phì khỏe mạnh, sự thèm muốn của bệnh nhân béo phì

 

Chế độ ăn uống nhiều chất béo trong tuổi dậy thì có thể gây nguy cơ ung thư vú

 

Một nghiên cứu gần đây trong tạp chí Nghiên cứu Ung thư vú có thể đã tìm thấy mối liên quan giữa chế độ ăn có nhiều chất béo trong tuổi dậy thì và các trường hợp ung thư vú ở phụ nữ trưởng thành.

 

Nghiên cứu được tiến hành trên 2 nhóm chuột bởi các nhà nghiên cứu tại Đại học bang Michigan. Một nhóm được cho ăn một chế độ ăn ít chất béo và nhóm khác được cho ăn một chế độ ăn uống nhiều chất béo (HFD), sau đó cả hai nhóm đã được tiếp xúc với một chất gây ung thư để tạo ra các khối u.

 

Chế độ ăn uống nhiều chất béo cho thấy biểu hiện gây viêm và tăng trưởng yếu tố gen của tuyến vú ngay tại 3, 4 tuần đầu khi thực hiện chế độ ăn uống. Ở thời điểm 10 tuần, những con chuột ăn chế độ nhiều chất béo, trước khi xuất hiện các khối u có thể sờ thấy, có nhiều tổn thương biểu mô vú bất thường và một số dấu hiệu khác phát triển ung thư tiềm năng.

 

Các nhà khoa học kết luận rằng: “Kết quả của chúng tôi chứng minh rằng nếu tiếp xúc với HFD trong giai đoạn tuổi dậy thì, HFD ảnh hưởng đến sự nhạy cảm của tuyến dậy thì, gây nên một chuỗi các viêm, tạo mạch, và các hiệu ứng thúc đẩy tăng trưởng bắt đầu sớm nhất trong 3 tuần thực hiện chế độ ăn uống, có thể dẫn đến việc thúc đẩy phát triển ung thư vú ở tuổi trưởng thành” M. Richmond

 

Nghiên cứu tăng tuổi thọ lên gấp 5 lần

 

Một bài báo được công bố trong tạp chí Cell Reports mô tả việc phát hiện ra một cách kéo dài tuổi thọ đáng kể ở sâu gọi là C. elegans – được thực hiện bằng cách tạo ra hai đột biến để kéo dài sự sống. Những con sâu được biến đổi gen sống lâu hơn gấp năm những con sâu không biến đổi gen.

 

Pankaj Kapahi, Tiến sĩ tại Viện Buck chuyên nghiên cứu về lão hóa và các đồng nghiệp kết hợp một đột biến trong các dẫn truyền chất dinh dưỡng được gọi là chỉ tiêu Rapamycin (TOR) với một đột biến trong dẫn truyền insulin Daf -2, vốn đã được chứng minh có thể tăng tuổi thọ C. elegans lên từ 30 đến 100%. Sự kết hợp này có thể đem lại hiệu quả tăng tuổi thọ hơn so với kết quả từ một hiệu ứng phụ.

 

Tiến sĩ Kapahi nói: “Thay vào đó, những gì chúng tôi làm đã tạo ra sự gia tăng tuổi thọ lên gấp 5 lần. Hai đột biến đưa ra vòng phản hồi tích cực trong các mô cụ thể để kéo dài tuổi thọ. Về cơ bản thời gian những con sâu này sống tương đương với tuổi thọ tầm 400 - 500 tuổi của con người”

 

Lưu ý: Nghiên cứu của Tiến sĩ Kapahi được tiến hành tương tự ở chuột. Ông nói: "Ý tưởng này sẽ sử dụng những con chuột biến đổi gen ở đường truyền tín hiệu insulin, và sau đó cho chúng sử dụng thuốc rapamycin, đó là cách để ức chế tuyến TOR”. Thuốc metformin làm giảm điều chỉnh tuyến TOR, cũng như các chất dinh dưỡng curcumin. D. Dye

 

Béo phì khỏe mạnh, sự thèm muốn của bệnh nhân béo phì

 

Vitamin D giúp phòng chống đau xơ cứng (MS) như thế nào?

 

Một báo cáo được công bố trong Kỷ yếu của Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia giải thích vai trò của vitamin D trong việc phòng chống bệnh đa xơ cứng (MS) Tác dụng phòng bệnh của vitamin D trong nghiên cứu đối với chuột của Tiến sĩ Anne R.Gocke và các cộng sự tại Đại học Johns Hopkins đã thử nghiệm tác dụng của vitamin D được biết đến như 1,25 – dihyroxy vitamin D3 và thấy tác dụng ngăn chặn các triệu chứng bệnh của vitamin đối với động vật. Sau khi ngừng điều trị vitamin D, các động vật nhanh chóng phát triển các triệu chứng, cho thấy rằng vitamin D có thể tạm thời ngừng phát triển bệnh.

 

Lưu ý: Johns Hopkins hiện đang tiến hành một thử nghiệm dùng vitamin D đối với những bệnh nhân MS, giúp xác định xem liệu bổ sung với các vitamin này có lợi cho con người hay không. D. Dye

 

 

Hoài Thanh(Tổng hợp)

 

Medical News Magazine

 

 

Tin mới nhất
Bài viết cùng chuyên mục

Detocap

 

Zulap

 Lưu huyết minh 

x

 

"Mời để lại số điện thoại, chúng tôi sẽ gọi lại ngay. Mọi thông tin hoàn toàn bảo mật."